Vận khí – Khí công cơ bản

Tâm oa

a) Phương pháp: Sau khi đã chuẩn bị xong, để tập trung tâm thần khỏi ra ngoài,hành giả hé mắt nhìn vào đầu mũi trong chốc lát (nhưng không dùng sức để vận dụng mắt),điều hòa hơi thở để cho tâm hồn an tĩnh, dùng tai lắng nghe chính hơi thở của mình, không nên để hơi thở thành tiếng phì phò. Khi thở ra, tưởng tượng như có một luồng chân khí chảy xuống tâm oa (chỗ trũng giữa mỏ ác trên ngực). Hãy để cho chân khí tự nhiêm tràn vào ngực, đừng cố gắng thở sâu. Nhắc lại là khi thở ra, chân khí chạy xuống và chỉ cần chú ý khi thở ra mà thôi. Khi hút vào mặc cho khí trời tự nhiên vào phổi, không cần để ý, nghĩa là cứ tập trung tư tưởng một vài giây rồi lại xả thần, giống như mình lùa một đàn vịt vào trong chuồng, cứ để ý từng con một chạy vào thôi, không quan tâm đến chuyện khác. Một thời gian sau sẽ thấy khí lực bắt đầu tập trung và tự cảm thấy mình đã kiểm soát được chân khí. Thường thường giai đoạn này chúng ta hay rơi vào những tạp niệm, tâm viên ý mã, nghĩ ngợi lông bông. Việc không nghĩ ngợi gì cả là việc hết sức khó mà chỉ những người có trình độ tu tập cao mới đạt được. Ở đây chúng ta không đi theo đường tu đạo mà chỉ cốt sao không vọng tưởng, gò cương con ngựa chạy theo con đường mình đã chọn thôi. Thành ra thay vì để tạp niệm xâm lấn, chúng ta tưởng tượng đến việc đưa khí vào tâm oa, nếu cần thì đếm hơi thở để thêm tập trung tinh thần. Hãy quản trị tư tưởng và cơ thể mình một cách nhẹ nhàng như người cưỡi ngựa trên một cánh đồng mênh mông, người và ngựa ăn nhịp với nhau như cánh chim phiếu diểu chứ không phải như trong một đấu trường. Trong giai đoạn đầu nếu mình chưa tự chủ được, có thể nghe những băng nhựa ghi tiếng sóng, tiếng suối reo, tiếng thác đổ, tiếng gió vi vu có bán trong những tiệm nhạc (relaxation tape) để nhờ âm thanh dẫn mình vào những cảnh giới thơ mộng. Làm thế nào để khi hành công thấy thoải mái, tim đập chậm lại, tâm hồn rộng rãi hơn, những ác niệm không đến trong đầu là đủ. Thông thường trong một hai hai tuần thì giai đoạn này trở thành thói quen, nghĩa là tâm hồn đã bắt đầu tập trung và tâm oa thấy ấm áp.

b) Thời gian: Theo nguyên tắc, chúng ta có thể tập vận hành chân khí ba lần một ngày, nhưng thường thì chúng ta không có điều kiện để làm như thế, nên một lần một ngày cũng đủ. Nên chọn một thời gian nhất định nào đó, hoặc sáng sớm, hoặc trước khi đi ngủ. Mỗi lần tập khoảng chừng 20 tới 30 phút. Người nào nhanh chỉ trong mười ngày đã có thể hoàn tất bước số 1.

c) Phản ứng: Khi luyện công được 3-5 ngày thì thấy tâm oa bắt đầu hơi nặng. Từ 5-10 ngày, mỗi lần thở ra, ta cảm thấy có một luồng hơi nóng chảy vào ngực. Đó chính là hiện tượng chân khí đang dần dần tích tục và chuẩn bị để sang bước thứ hai. Gia đoạn đầu chỉ là giai đoạn chuẩn bị tinh thần và cơ thể để chứng nghiệm sự hiện hữu của chân khí, khiến cho hành giả phấn khởi để bước sang bước thứ hai.

d) Hiệu quả: những ngày đầu vì chưa quen, người tập thường hay bị váng đầu, hoa mắt, đau lưng, thở hút không tự nhiên, đầu lưỡi không để lên hàm trên. Những hiện tượng đó hầu như ai cũng gặp phải và đừng quá quan tâm, chỉ một thời gian sau sẽ hết. Nên nhớ rằng ích lợi thực tế của giai đoạn này còn rất mơ hồ. Có người thì cảm thấy ngực ấm áp hơn, dễ ngủ, ăn uống dễ tiêu hơn. Nhưng cũng có người lại bị mất ngủ vì cơ thể thay đổi bất thường. Không nên lo lắng vì những thay đổi đó. những ai ở vùng lạnh nên mặc áo ấm, đi vớ trong và sau khi hành công để thân thể tiếp tục ấm áp, dùng chân khí bảo vệ cơ thể, chống lại khí hậu khắc nghiệt và bệnh tật.

Đan điền

a) Phương pháp: Khi mỗi lần thở ra thấy tâm oa nóng thì lúc đó chân khí đã bắt đầu tập trung và điều khiển được. Tới giai đoạn này, người tập thay vì ngừng lại ở tâm oa, kéo dài thêm một chút để dẫn khí xuống dưới bụng. Cũng xin nhắc lại, dẫn chân khí chứ không phải không khí nghĩa là không phải phình bụng ra như người ta thường lầm tưởng. Chân khí vô hình vô ảnh nên chúng ta chỉ cảm thấy một luồng khí nóng đi xuống dưới bụng mà thôi. Làm thế nào để việc chân khí đi xuống thật tự nhiên, đừng vội vã, cũng đừng gò ép mất thoải mái.

b) Thời gian: cũng như trước từ 1 đến 3 lần một ngày, mỗi lần 20-25 phút hay hơn. Tập như thế trong khoảng 10 ngày ta sẽ thấy chân khí chạy xuống được đan điền (khí trầm đan điền).

c) Phản ứng: Mỗi lần thở ra, ta thấy một làn khí nóng chạy xuống đan điền. Dần dần bụng như có âm thanh ùng ục, các bắp thịt bụng co thắt mạnh hơn, có khi trung tiện.Chính vì chân khí đã đến bụng dưới nên hoạt động của ruột cải biến, cơ thể hồi sinh và tự thải các chất độc trong người.

d) Hiệu quả: Vì chân khí đã chạy đến tì vị nên tì vị được cải thiện. Sau khi chân khí đã vào đến đan điền, các bộ phân chung quanh, chủ yếu là đại tiểu trường, thận, bàng quang đều được ảnh hưởng. Hành giả thấy ăn ngon miệng hơn, đại tiểu tiện tốt hơn. Những người bị bệnh liên quan đến tiêu hóa sẽ cảm thấy có những thay đổi rõ rệt.

Ngưng thần

a) Phương pháp: Đến khi đan điền có cảm giác rõ rệt, chân khí trong hành giả sung túc, tì có thể tiến sang giai đoạn thứ ba là tập trung hơi thở ngừng lại tại đan điền. Ở giai đoạn này, không còn cần phải ngưng tụ chân khí vào đan điền vì có thể gây nhiệt thái quá, hao tổn âm dịch phạm vào chứng “tráng hỏa thực khí”. Lúc này thở hút để tự nhiên, chỉ cần giữ ý tại đan điền dùng lửa chân khí sưởi ấm cơ thể. Người ta gọi đó là “thiếu hỏa sinh khí”.

b) Thời gian: Mỗi ngày tập từ một tới ba lần, mỗi lần từ nửa giờ trở lên. Giai đoạn này có thể kéo dài từ một tới nhiều tháng. Nhiều môn ngoại môn công phu tập khí công để phụ trợ ngừng lại ở giai đoạn này.

c) Phản ứng: Ở giai đoạn 2, bụng dưới thấy rõ rệ có hơi nóng và tập giai đoạn ba độ mười ngày thì bắt đầu hình thành một hiện tượng mà người ta gọi là “gò khí” (khí khâu). Tùy theo công phu mà gò khí lớn dần,bụng dưới thêm có sức, thân thể thấy nặng nề, đi đứng vững chãi hơn. Nhiều người ở giai đoạn này thấy mình cỏ vẻ như “long hành hổ bộ” bước đi nhẹ nhàng, tâm thần tự tin, khí mạo đĩnh đạc. Khi gò khí đã đủ lớn, chân khí bắt đầu đi xuống, có khi âm bộ thấy ngứa, hoặc hội âm rung động. Tứ chi và lưng có khi thấy nóng.

d) Hiệu quả: Đến giai đoạn này, nhâm mạch đã thông, đạt tới trình độ “tâm thận tương giao’ nghĩa là khí từ trung đan điền (ngực) và hạ đan điền đã gặp nhau. Trung khí của chúng ta bắt đầu vượng thịnh, ăn ngủ ngon hơn, tâm thần an tĩnh hơn. Thường thường khi ta bị mất ngủ là vì tâm hỏa bốc lên gây ra những chứng bệnh về tim. Luyện công làm cho ruột và dạ dày thêm nhiệt năng, tì vị hấp thu năng lượng cũng tăng cường, và những người gầy yếu thường lên cân. Tinh thần mạnh khỏe, nguyên khí đầy đủ, thận cũng mạnh mẽ, những chứng bất túc về sinh lý sẽ được cải thiện, phụ nữ kinh nguyệt không đều cũng trở lại bình thường. Vì thận (thủy) vượng, gan (mộc) cũng mát, các chứng bệnh do gan nóng cũng bớt dần.

Đốc mạch

a) Phương pháp: Khi đã tập giữ ý tại đan điền chừng 40 ngày, chân khí đã ngưng tụ và điều khiển được theo ý muốn, hành giả cảm thấy đầy đủ và từ từ dẫn khí qua đốc mạch. Chân khí sẽ chạy từ đan điền vòng xuống hội âm theo đường xương sống chạy lên trên (đầu). Theo phương pháp khí công, người ta thường đòi hỏi phải nhíu hậu môn vì đây là “hạ thước kiều”, phải bắc cầu để cho chân khí có lối đi qua, cũng như khi tập vận khí vào tâm oa, lưỡi phải cong lên đụng hàm ếch để bắc “thượng thước kiều” cho khí chạy xuống. Giai đoạn này là một thời kỳ khó khăn, nguyên lý của nó là đừng quên (vật vong) nhưng cũng đừng giúp (vật trợ).

Thế nào là đừng quên?
Đừng quên nghĩa là luôn luôn theo dõi chân khí, không lúc nào rời xa. Ý vẫn giữ ở đan điền nhưng chân khí chạy xuống hội âm rồi đi vòng lên xương sống ta phải luôn luôn theo dõi tiến trình di chuyển.

Thế nào là đừng giúp?
Việc di chuyển đó không còn tùy ý của ta mà phải theo tự nhiên. Điều quan trọng là ta biết được đường đi của chân khí để kiểm soát nhưng cũng không cố gắng dùng sức để ép nó phải đi. Nếu mong mỏi cho mau thành, cố gắng đẩy chân khí đả thông nhâm đốc hai mạch sẽ làm cho khí ở đan điền thoát tiết rất có hại. Người xưa gọi hành vi đó là “nhổ mạ cho mau lớn”. Giai đoạn này cần sao cho tự nhiên, đến đâu hay đó, ý chí con người không thể làm cho công phu tốc thành, càng hối hả càng nguy hiểm, có thể làm tổn thương một số giây thần kinh, đưa đến tê liệt toàn thân, sách gọi là “tẩu hỏa nhập ma ”. Chỉ khi nào chân khí chạy đến ngọc trẩm (sau ót) bị bế tắc, người ta mới dùng phương pháp nội thị (quán tưởng) để trợ cho chân khí phần nào.

b) Thời gian: Ở giai đoạn này, người ta tăng lên từ 40 phút đến 1 giờ mỗi lần hành công. Có người chỉ trong giây lát chân khí đã chạy lên đến đỉnh đầu nhưng có người phải mất một vài ngày mới xong. Đa số mất khoảng chừng một tuần thì thông được cả hai mạch nhâm và đốc. Nếu một tuần mà vẫn chưa thông được đốc mạch thì hành giả phải ngưng lại tìm hiểu lý do vì sao.

c) Phản ứng: Trong thời kỳ thứ ba đan điền sung thực, hội âm dao động, sau
lưng thấy nóng, mệnh môn chân khí đầy dẫy cảm giác thận gian động khí như có một luồng lực đạo chạy lên, mỗi người một khác. Có người chân khí mãnh liệt, hơi nóng lên thật nhanh chỉ một lần thông được đốc mạch, có người từ từ vài ngày mới xong. Cũng có người như ống thủy ngân, lên rồi lại xuống, lúc nhanh lúc chậm. Khi đốc mạch chưa thông, lưng thường có khuynh hướng vươn lên, hoặc ngả về đằng sau, trên đầu có khi thấy căng căng khó chịu, không thoải mái. Gặp trường hợp này nên bình tĩnh, kiên trì vượt qua, khi đốc mạch thông rồi sẽ hết. Trong tiến trình vận hành chân khí, đây là bước quan yếu nhất, có thể nguy đến tính mệnh vì trèo càng cao thì ngã càng đau. Sách gọi là “tích khí xung quan” (tích khí để vượt qua ba cửa ải, vĩ lữ, hiệp tích, ngọc trẩm)cũng còn gọi là hậu thiên phản tiên thiên.

d) Hiệu quả: Khi đốc mạch đã thông, mỗi lần thở ra chân khí chạy về đan điền, mỗi lần hút vào chân khí chạy vào não hải. Một lần hô hấp là một lần chân khí tuần hoàn một vòng nhâm đốc, cổ nhân gọi là tiểu chu thiên. Đến giai đoạn này người ta mới được gọi là “hô hấp tinh khí, độc lập thủ thần” và tinh lực không ngừng bổ cho não tủy não bộ thêm mạnh mẽ, những chứng thuộc về thận suy hay tuyến nội tiết không đều hòa (đầu váng, mắt hoa, tai lùng bùng, mất ngủ mau quên, đau lưng, chân mỏi, tinh thần hoảng hốt, dễ giận, dễ vui, tình dục suy yếu)sẽ được cải thiện.

Súc lực

a) Phương pháp: Từ trước tới nay,hành giả vẫn theo nguyên tắc là ý giữ tại đan điền (ý thủ đan điền) nghĩa là lúc nào cũng chú tâm vào bộ vị ở bụng dưới. Sau khi đốc mạch đã quán thông, các kinh mạch khác cũng lần lượt sẽ thông, huyệt bách hội trên đầu cảm thấy có sức lực và có thể chuyển sang tập trung ý vào đỉnh đầu. Tùy theo mỗi người có thể tập trung ý chí vào một bộ vị khác nhau.

b) Thời gian: Thời gian bây giờ khoảng chừng một giờ mỗi lần tập. Trong một tháng, các hiện tượng xúc động sẽ dần dần giảm bớt, chỉ hai nơi, thượng và hạ đan điền càng ngày càng tích thêm chân khí.

c) Phản ứng: trong khi đốc mạch chưa thông, thân thể thường như có điện chạy, hoặc ngứa, hoặc tê trên da dẻ. Mi tâm và mũi như thấy căng ra, môi cũng hơi ngứa. Thân thể lúc ấm lúc mát, da cũng theo hô hấp mà chuyển động. Khi hút vào da căng ra, khi thở ra thì như bị đè xuống. Có lúc thấy nhẹ nhàng phiếu diểu, có lúc lại nặng như non Thái, có khi to lớn, có khi bé nhỏ, nhiều khi bất chợt rung động. Tất cả đều do chân khí hoạt động mà hóa thành. Tuy nhiên mỗi người một khác, gặp phải cũng đừng sợ hãi, không gặp cũng đừng truy cầu. Khi đạt tình trạng tĩnh, mọi hiện tượng trên sẽ mất đi, hơi thở nhẹ nhàng, như có như không, chân khí vượng thịnh, linh động hoạt bát, tinh thần sảng khoái, thoải mái. Đan điền như dòng nước có ngậm hạt ngọc, huyệt bách hội như ánh trăng chiếu rọi, chính là nhờ chân khí đầy đủ mà có được.

d) Hiệu quả: Căn cứ theo những biểu hiện của thân thể, nhất là hai huyệt đan điền và bách hội, các hạch nội tiết cũng hoạt động mạnh mẽ hơn. Những hoạt lực này càng lâu càng nhiều, và người tập nhận thấy sinh lý và điều tiết thêm cải thiện, tiềm lực tăng gia. Sức đề kháng bệnh tật cũng mạnh mẽ hơn, các cố tật trầm kha thuyên giảm. Kiên trì tập luyện chắc chắn thân tâm kiện khang,
khỏe mạnh trường thọ.

(1) Hấp thiên dương dĩ dưỡng khí, ẩm địa âm dĩ dưỡng huyết.
(2)Pháp ư âm dương, hòa ư thuật số, ẩm thực hữu tiết, khởi cư hữu thường, bất vọng lao tác, cố năng hình dữ thần cụ, thọ chung kỳ thiên niên, bách tuế nãi khứ.
(3) Chân khí giả sở thụ ư thiên, dữ cốc khí tịnh nhi sung thân giả dã.
4. Nhân chi khí huyết tinh thần giả sở dĩ phụng sinh nhi chu ư tính mệnh giả dã.
5. Cố sinh chi lai vị chi tinh, vạn vật hóa sinh tất tòng tinh thủy.
6. Chân khí giả sở thụ ư thiên, dữ cốc khí tịnh nhi sung thân giả dã.
7. Khí tại dương tức dương khí, khí tại âm tức âm khí, tại vị viết vị khí, tại tì viết sung khí, tại lý viết doanh khí, tại biểu viết vệ khí, tại thượng tiêu viết tông khí, tại trung tiêu viết trung khí, tại hạ tiêu viết nguyên âm nguyên dương chi khí.
8. Chân khí giả, kinh khí dã.
9. Doanh khí giả bí kỳ tân dịch, chủ chi ư mạch hóa dĩ vi huyết, dĩ vinh tứ mạt. Nội chú ngũ tạng lục phủ.
10. Vệ khí giả sở dĩ ôn phân nhục, sung bì phu, phì thấu lý, tư khai hạp giả dã. Vệ khí hòa tắc phân nhục giải lợi, bì phu điều nhu, thấu lý chí mật hĩ.
11. Kinh mạch giả, sở dĩ quyết tử sinh, xử bách bệnh, điều thực hư, bất khả bất thông.
12. Y học bất minh kinh lạc, do nhân dạ hành vô chúc.
13. Phế giả tương truyền chi quan, chế tiết xuất yên

Bình luận về bài viết này